Sunday, November 1, 2009

[Mark Moyar]:(2) Sư Chính Trị Hổ Mang Ấn Quang 1954-65

[Mark Moyar]:(2)

Sư Chính Trị Hổ Mang Ấn Quang 1954-65


Sư chính trị 1-2

Mark Moyar
Trần Hải dịch


“Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam” do Trần Hải dịch từ “Political Monks: The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War.” Modern Asian Studies, 38:4 (2004), tr.749-784, của Mark Moyar, tác giả cuốn “Chiến thắng bỏ lỡ”Triumph Forsaken – The Vietnam War 1954-1965 (Cambridge University Press 2006). Bản dịch tiếng Việt © 2007 talawas.


Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam

Tóm lược: Từ tháng Mười Một năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965, phong trào Phật tử xuống đường tranh đấu là nguyên nhân chính yếu gây bất ổn chính trị tại Nam Việt Nam. Trong khi các Phật tử xuống đường phát biểu rằng họ đại diện cho đông đảo quần chúng Phật tử và chỉ tranh đấu cho tự do tôn giáo, thực chất họ chỉ gồm một thiểu số nhỏ, không mang tính đại diện, đang tìm cách gây ảnh hưởng về chính trị. Khai thác triệt để những âm mưu đen tối và bạo loạn quần chúng để khuynh đảo chính quyền, những Phật tử cực đoan đã tiến hành một hình thức sinh hoạt chính trị trái với truyền thống Phật giáo Việt Nam. Có bằng chứng cho thấy một số Phật tử trong phong trào này làm việc cho cộng sản Việt Nam.

*

Giai đoạn từ cuối năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965 đã được chú ý nhiều hơn bất cứ khoảng thời gian nào trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phần lớn là vì trong giai đoạn này Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson đã quyết định tham chiến trên bộ. Hầu như mọi sử gia của giai đoạn này đều xem sự yếu kém của chính quyền Nam Việt Nam là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến sự can thiệp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ít có sử gia nào phân tích các lý do của sự yếu kém này. Những người có đề cập đến vấn đề này thường cho nguyên nhân sự yếu kém của chính quyền nói chung chỉ là do năng lực kém cỏi và thiếu tinh thần của tầng lớp lãnh đạo.(1) Một số nhân vật cầm quyền thì đúng là những người lãnh đạo tồi, nhưng cũng có những người có tư chất lãnh đạo tốt. Sự thất bại của những cá nhân có năng lực có nhiều phần do tác động của một ngoại lực: những Phật tử tranh đấu. (2)

Trường phái mạnh nhất của các sử gia về Việt Nam, được gọi là trường phái chính thống, thường viết về những Phật tử này như những nhà tu hành không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh nhằm cải thiện tình trạng độc tôn và đàn áp tôn giáo.(3) Trên thực tế, những lãnh đạo phong trào Phật tử tranh đấu cố tình khuynh đảo mọi chính quyền từ 1963 về sau vì những lý do không liên quan gì đến tự do tôn giáo. Tuyệt đại đa số những cáo buộc về đàn áp tôn giáo mà họ dùng để biện minh cho hoạt động của họ đều là giả dối. Hơn nữa, ít nhất cũng có một vài vị lãnh tụ phong trào này đã tự nguyện cộng tác với cộng sản. Ở một mức độ nào đó, phong trào Phật giáo tranh đấu đã tiến hành các hoạt động bí mật, và rất có hiệu quả. Hiếm khi mà một phong trào đối lập có thể gây rối cho nhiều chính quyền một cách có hiệu quả với nguồn lực ít ỏi như thế.

Phần lớn thông tin hiện có về phong trào Phật tử tranh đấu và chính trường Nam Việt Nam đều từ các nguồn ở phương Tây. Kể từ khi Hoa Kỳ bắt đầu dính líu đến Việt Nam năm 1950 cho đến khi kết thúc năm 1975, một số lớn nhân viên chính phủ Hoa Kỳ và phóng viên đã đặt nhiệm sở tại Nam Việt Nam. Đồng minh của Hoa Kỳ từ Châu Âu, nhất là Anh Quốc, cũng đã có nhân viên ngoại giao và phóng viên ở Nam Việt Nam.

Bài báo này chủ yếu dưạ trên các nguồn thông tin từ Hoa Kỳ và Anh Quốc, là hai nguồn phong phú nhất hiện có. Các tài liệu có liên quan của Nam Việt Nam, còn gọi là Việt Nam Cộng hoà, hiện đang ở trong tay Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những tài liệu này và những tài liệu tương ứng của Bắc Việt vẫn chưa được công bố cho giới nghiên cứu ngoại quốc. Trong khi Việt Nam đã xuất bản một số tài liệu lịch sử hữu ích từ khi chiến tranh chấm dứt, các tài liệu đó lại không chứa đựng thông tin quan trọng nào liên quan đến những biến động Phật giáo giữa thập niên 1960. Khi những tài liệu đó được cộng bố, sẽ có các thông tin xác đáng về một số vấn đề, nhất là sự can thiệp của Bắc Việt trong phong trào Phật tử tranh đấu. Dẫu vậy, các nguồn thông tin phương Tây, cũng trình bày nhiều khía cạnh của phong trào Phật tử tranh đấu một cách đầy đủ, và cũng khách quan hơn nhiều so với các tài liệu nguồn Việt Nam có thể có.

Các thương nhân và tu sĩ Ấn Độ truyền Phật giáo vào Việt Nam trong thế kỷ đầu của Công nguyên. Tôn giáo này đã nhanh chóng thu nhận được rất đông tín đồ, và nhiều người, dù không xuất gia, cũng theo các nghi lễ và nguyên lý Phật giáo. Nhưng Phật giáo và văn hoá Ấn đã không bao giờ thống trị Việt Nam như ở Cam bốt, Thái, và Miến điện. Nguồn ảnh hưởng chính lúc nào cũng là người Trung Hoa, kẻ đã kiểm soát Việt Nam khi Phật giáo xuất hiện và tiếp tục thống trị cho đến thế kỷ thứ mười. Người Trung Hoa đã gieo rắc sâu xa lý thuyết của Khổng Tử ở Việt Nam và Khổng giáo đã đóng một vai trò ưu việt trong lịch sử lâu dài của Việt Nam, cho đến cả thế kỷ hai mươi. Cho dù Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của vua chúa và dân dã trong nhiều thời kỳ, các nguyên tắc Khổng giáo vẫn thống trị các mối quan hệ gia đình và chính trị, ngay cả giữa những Phật tử với nhau.(4)

Nam Việt Nam trong thế kỷ hai mươi thường bị gọi nhầm là một đất nước Phật giáo. Trong một đất nước với 15 trrệu dân, có khoảng 3 đến 4 triệu Phật tử và trong số này chỉ khoảng một nửa thực sự hành đạo. Khoảng 4 triệu người cho Khổng giáo là tín ngưỡng cơ bản. Trong những người theo Khổng giáo, một số có liên hệ lỏng lẻo với bên Phật giáo nhưng họ không hề xác định mình là Phật tử theo tổ chức của giáo hội Phật giáo. Trong giao đoạn có xung đột tôn giáo từ 1963 đến 1966, những người đó thường không ủng hộ phong trào Phật tử xuống đường. Một triệu rưỡi công dân Việt Nam theo Công giáo, và khoảng hai triệu rưỡi hay ba triệu theo đạo Cao Đài và Hoà Hảo. Số còn lại thờ linh vật hoặc theo đạo Lão, Tin lành, Ấn Độ giáo, hay Hồi giáo, v.v…(5)

Trong khi có hiện tượng gần như sự phục hưng của Phật giáo trong những năm trước giai đoạn biến động 1963-1966, Phật giáo Việt Nam vẫn còn tương đối yếu. Quần chúng Phật tử Việt nam không hề có biểu hiện cuồng nhiệt tôn giáo như giới Phật tử ở các nước Châu Á khác. Trước cuộc bạo động Phật giáo năm 1963, giới sư sãi Việt nam hiếm khi chủ động tham gia chính sự quốc gia. Họ và Phật tử dùng tôn giáo của mình để giải quyết những vấn đề tâm linh nội tại, không quan tâm đến việc trần thế của chính quyền. Phật giáo Việt Nam cũng phân chia ra thành nhiều hệ phái mà không có phái nào có cơ cấu tổ chức mạnh và chặt chẽ. Ba miền cuả Việt Nam – Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ - mỗi miền đều có những nhóm Phật tử cục bộ. Miền Nam Việt Nam bao gồm Nam kỳ và phần nam Trung kỳ, cũng có một số lớn dân di cư đã bỏ Bắc kỳ và phần phía bắc Trung kỳ vào năm 1954. Phật giáo Việt Nam còn bị phân chia theo phái Tiểu Thừa (Theravada – Nam Tông) và Đại Thừa (Mahayana – Bắc Tông).(6)

Xung khắc giữa Phật giáo và chính quyền Sài Gòn khởi đầu vào ngày 8 tháng Năm năm 1963, khi 9 thường dân bị chết một cách đầy bí ẩn trong một buổi biểu tình của Phật tử ở Huế. Dưới sự lãnh đạo của sư Thích Trí Quang, một mhóm Phật tử tổ chức biểu tình và nói với báo chí ngoại quốc là chính quyền Diệm đàn áp Phật giáo. Nhóm này sau đó được biết đến với danh xưng “Phật tử tranh đấu”. Diệm từ chối không chịu nhân nhượng và thực thi những cải cách theo yêu cầu của nhóm Phật tử đấu tranh và phía Mỹ. Kết quả là Người Mỹ đã quay lưng lại với Diệm. Vào tháng 10 năm 1963, Toà Đại sứ Mỹ chấp thuận một âm mưu đảo chánh do mấy tướng lãnh cao cấp Việt Nam dự mưu, và vào ngày 1 tháng 11, các tướng này lật đổ Diệm và hạ sát ông ta.

Một Hội đồng tướng lãnh, do Đại tướng Dương Văn Minh lãnh đạo, nắm quyền sau cuộc đảo chánh. Mong tìm sự ủng hộ từ những nhóm chính trị rắc rối nhất, chế độ mới nhanh chóng thả ngay tất cả các sinh viên và Phật tử chống đối bị Diệm cầm tù trước đó. Theo lời cố vấn của Toà Đại sứ Mỹ, các tướng lãnh hứa sẽ thực thi những cải cách chính trị Tây phương mà người đã Mỹ thúc đẩy từ lâu, kể cả tự do báo chí và tự do phát biểu chính kiến. Tuy nhiên, mặc dầu đã trả tự do cho những Phật tử tranh đấu và thực thi cải cách, vấn đề Phật tử đã không được hoá giải. Trong tháng đầu tiên của chế độ mới, ba Phật tử đã tự tuẫn để phản đối chính quyền.(7) Đó chính là chiến thuật mà các Phật tử đã dùng để chống Diệm. Chỉ trong bốn tháng sau khi Diệm bị lật đổ, số Phật tử tự tuẫn vì lý do chính trị còn nhiều hơn là trong suốt những năm Diệm làm Tổng thống.

Tướng Minh đã lộ diện là người lãnh đạo quốc gia bất tài. Các tướng khác không ai bù đắp cho sự yếu kém của ông ta được và thay vào đó dành nhiều thời gian cãi cọ nhau và bắt bớ những người đã ủng hộ Diệm trước đây.(8) Hậu quả của tình trạng chính quyền trì trệ đã tạo cơ hội cho Việt cộng tăng cường và khai thác tối đa vị thế quân sự của mình.

Tình trạng bất lực của “chính quyền Hội đồng” này chẳng bao lâu đã làm cả người Mỹ lẫn người Việt hết chịu nổi. Vào cuối tháng Một, tướng Nguyễn Khánh cho người Mỹ biết một số tướng lãnh thân Pháp sắp đảo chánh, và họ dự định sau đó sẽ biến Nam Việt Nam trở thành một nước trung lập. Một nước Việt Nam Cộng hoà trung lập sẽ “đặt dấu chấm dứt cho” quan hệ đồng minh với Mỹ và sẽ đi đến thoả hiệp với Bắc Việt. Sự trung thực của tướng Khánh không bao giờ được thẩm định vì không có chứng cớ. Tướng Khánh cũng phát hoảng vì sự kém cỏi của Tướng Minh và Hội đồng tướng lãnh của ông ta, đồng thời Tướng Khánh cũng cho là mình có thể làm tốt hơn tướng Minh. Hơn nữa, Khánh cũng bực bội về chuyện Hội đồng quân nhân đảo chính do Minh cầm đầu đã giết Diệm vì Khánh có cảm tình với Diệm và vì các tướng lãnh đã hứa sẽ không hại Diệm.(9) Vào ngày 30 tháng Một, được Mỹ hậu thuẫn, Khánh giành chính quyền bằng một cuộc đảo chính không đổ máu. Khánh giam giữ Minh cùng các cộng sự thân cận nhất của ông ta và tự phong mình làm thủ tướng.

Về phương diện lãnh đạo quốc gia, Khánh đã tỏ ra có năng lực hơn các vị tiền nhiệm. Tuy nhiên, Khánh lại tiếp tục chính sách thuyên chuyển xoay vòng các tỉnh và quận trưởng, vốn đã làm suy yếu các chính quyền tiền nhiệm.(10) Khánh đưa vào một số người trước đây ủng hộ Diệm và bị mất chức vào tháng 11 năm 1963. Tái xuất hiện trên chính trường vào thời điểm này là những Phật tử tranh đấu, vào khoảng đầu năm 1964 đã kết hợp thành một tổ chức với tên gọi là “Viện Hoá đạo” do Trí Quang và Tâm Châu đứng đầu. Trí Quang và các sư tranh đấu khác tố cáo một cách vô căn cứ rằng Khánh - vốn là một Phật tử - và chính quyền hầu hết là Phật tử của ông, đang trở lại chính sách bách hại Phật tử của Diệm. Vì thiếu kinh nghiệm và dễ bị đe doạ, Khánh sụp đổ trước áp lực này. Ông ngừng bổ nhiệm những viên chức thân Diệm, sa thải một số đang tại chức, và cầm tù thêm một số người thân Diệm khác. (11)

Việc Khánh nhượng bộ những đòi hỏi này đã không giúp ông ta thoát khỏi sự chỉ trích của các Phật tử tranh đấu.(12) Trong khi một số sư lãnh đạo trong Viện Hoá đạo và một số Phật tử có uy tín chấp thuận tướng Khánh thì Trí Quang lại tố cáo Khánh là không cho Phật tử được tự do tôn giáo và cho phép viên chức chính quyền tự do cầm tù Phật tử.(13) Hệt như đã xảy ra trong vụ xung đột giữa Diệm với giới Phật tử, Tướng Khánh càng nhượng bộ, Trí Quang càng đòi hỏi nhiều hơn. Không như Diệm, Khánh tiếp tục thoả mãn các yêu sách không ngừng nghỉ. Một cách giải thích về thái độ của Khánh là vì ông ta tin rằng nếu chống đối lại các Phật tử thì sẽ làm người Mỹ xa lánh, như đã xảy ra với Diệm. Phần khác là do sự ngây thơ và non kém về chính trị của chính bản thân Khánh. Để thoả mãn Trí Quang, Khánh buộc quân đội phải cách chức tất cả các linh mục tuyên uý Công giáo.(14) Áp lực từ Trí Quang cũng buộc Khánh phải kết án chung thân khổ sai Đặng Sỹ, một sỹ quan Công giáo có liên quan đến sự cố chết người bí ẩn trong cuộc biểu tình ngày 8 tháng Năm năm 1963.(15)

Không như các Phật tử khác, Trí Quang đòi tử hình em trai của Diệm là Ngô Đình Cẩn, người đang bị chính quyền của Khánh xét xử vì bị tố giác một số tội. Đưa ra lập luận, sau này sẽ trở thành nền tảng cho hầu như tất cả mọi sự chỉ trích chính quyền, Trí Quang cảnh báo rằng Cẩn phải bị xử tử để chống lại một âm mưu đen tối của người Công giáo, các dư Đảng Cần lao, và những kẻ đã ủng hộ Diệm, nhằm lập lại một chính quyền kiểu Diệm. (16)


Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Henry Cabot Lodge đã thỉnh cầu các lãnh đạo Nam Việt Nam tha mạng cho Cẩn bằng cách nhắc nhở rằng chính quyền đã không đưa ra được chứng cớ rõ ràng nào về tội của Cẩn.(17) Thủ Tướng Khánh, dẫu vậy, vẫn quyết định làm hài lòng các Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, và Khánh đã cho xử tử Cẩn ngày 9 tháng Năm. Nếu không vì quá sợ sự chống đối của Phật tử thì Khánh hẳn đã không chọn hướng làm vừa lòng Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, cho dù như thế có thể dễ làm mất lòng người Mỹ và cả Khánh lẫn quốc gia của ông ta không thể trụ được nếu không có sử ủng hộ của người Mỹ.(18)

Đại sứ Lodge đã ủng hộ Trí Quang mạnh mẽ trong năm 1963. Thực ra ngay từ đầu nhiệm kỳ, Lodge đã đề nghị đưa Trí Quang vào thành phần chính phủ nhằm mở rộng nền tảng đại diện của chính phủ. Nhưng đến đầu năm 1964, Lodge đã mất hết thiện cảm với Trí Quang và phong trào tranh đấu. Lodge nhận xét trong mùa xuân năm này, “Tôi cho rằng Phật giáo có thể là một mối nguy hiểm cho chính quyền. Cụ thể, tôi nghĩ rằng Trí Quang, lãnh tụ Phật giáo, là kẻ có tiềm năng gây rối. Đã lật đổ được một chính quyền, ông ta có thể muốn làm lại như thế đối với Khánh.” Nhận xét về những lời công kích của Trí Quang đối với Khánh, Lodge lưu ý rằng Trí Quang “đã cho tôi biết là ông ấy không coi Khánh là một ‘Phật tử tốt’ – hẳn có nghĩa là, một Phật tử không theo sự chỉ giáo của Trí Quang.” Một dịp khác, Lodge nói rằng Trí Quang “đầy tham vọng, chống Thiên chúa giáo, đầy hận thù, và chống Khánh ra mặt,” và rằng, “có sự xâm nhập của cộng sản vào tổ chức Phật tử.” Cũng giống như Lodge, nhiều thành viên của ngoại giao đoàn và báo giới trước đây đã ủng hộ Trí Quang và các Phật tử tranh đấu khác trong năm 1963, đến năm 1964 bỗng trở nên nghi ngờ họ.(19)

Từ đầu, nhiều quan sát viên Việt Nam đã tố cáo Trí Quang là một điệp viên cộng sản. Nói chung, các chứng cớ cũng cho thấy quan điểm này là đúng, cho dù không có bằng chứng tuyệt đối. Sinh ra ở miền Bắc, Trí Quang đã phục vụ cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến Pháp-Việt. Anh của Trí Quang là một quan chức trong chính quyền Bắc Việt, một sự thật được chính Trí Quang xác nhận. Khi những cuộc phản đối nổ ra ở Nam Việt Nam, có thông tin cho thấy người anh trai này đã cầm đầu các chương trình hoạt động bí mật của Bắc Việt ở Miền Nam.(20) Trong tháng Sáu năm 1963, Trí Quang thúc đẩy các Phật tử tìm kiếm hậu thuẫn từ phía Việt cộng để chống lại chính quyền của Diệm.(21) Những phương pháp vận động chính trị của Trí Quang gần giống với những phương pháp của cộng sản và tiến bộ hơn hẳn phương pháp của những Phật tử khác. Khi cộng sản chiếm Miền Nam năm 1975, Trí Quang được bố trí một công việc ở Huế và ông ta không có một phát ngôn chống đối nào đối với chế độ, trong khi họ cầm tù rất nhiều sư đã có thành tích tranh đấu.(22)

Trí Quang liên tục tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng sản, cho dù vẫn chỉ trích chính quyền.(23) Hành động của ông, tuy vậy, không phù hợp với lời nói. Hành động của Trí Quang đã gây tác hại lớn cho mọi chính quyền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến 1966, và những hành động đó đã có thể huỷ diệt chính quyền nếu rốt cục các lãnh đạo quân đội không quyết định chặn đứng Trí Quang. Nếu Trí Quang không phải là một người cộng sản trung kiên, thì chắc hẳn ông có ảo tưởng ngông cuồng là tự mình có thể ngăn chặn cộng sản sau khi chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ.

Vào ngày 5 tháng Tám năm 1964, Mỹ ném bom tàu bè và các căn cứ hải quân Bắc Việt để trả đũa cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” được nêu là có hai vụ tấn công tàu chiến Mỹ trong Vịnh. Tổng thống Lyndon Johnson vận dụng sự kiện này để được Quốc Hội chấp thuận cho phép dùng mọi biện pháp cần thiết ở Đông Nam Á. Tướng Khánh cũng tin rằng thời điểm căng thẳng quốc tế này là một cơ hội tốt cho ông gia tăng quyền lực. Do đó, ông tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” vào ngày 7 tháng Tám. Khánh ban bố nghị định cho phép cảnh sát cấm biểu tình, lục soát nhà cửa bất cứ lúc nào, và bắt giam “những thành phần được xem là nguy hiểm cho an ninh quốc gia.” Chính quyền ban hành lệnh kiểm duyệt và ngăn cản “việc lưu hành những ấn bản, tài liệu, và truyền đơn được xem là nguy hại đến trật tự công cộng.”(24) Khánh cũng soạn thảo một hiến pháp mới, với mục đích gia tăng quyền lực của mình và lấy hết thẩm quyền còn lại của Tướng Minh.(25)

Thay vì củng cố quyền lực của Khánh, những biện pháp đó làm bùng nổ một cơn khủng hoảng chính trị tồi tệ. Tại những cuộc biểu tình lớn trong các đô thị, các Phật tử tranh đấu và nhóm sinh viên – phần nhiều bị ảnh hưởng nặng nề từ phía Phật tử tranh đấu – đòi Khánh chấm dứt tình trạng khẩn cấp và huỷ bỏ hiến pháp mới.(26)

Nhóm Phật tử tuyên bố là có một âm mưu của phe Diệm, liên quan đến các cựu đảng viên Cần lao, Công giáo, và Đảng Đại Việt do các Tướng Khiêm và Thiệu lãnh đạo. Những người tranh đấu đã cáo buộc là phe Diệm đã đàn áp Phật tử. Phóng đại ảnh hưởng của Công giáo trong chính quyền của Khánh, Trí Quang nói với các viên chức Mỹ tại toà đại sứ rằng, “Phật tử không thể chấp nhận chính quyền bởi người Công giáo.” Trừ khi ảnh hưởng của những người Công giáo bị loại bỏ,” Trí Quang cảnh cáo, Phật tử “sẽ rút lui khỏi cuộc chiến, để chỉ người Công giáo với sự ủng hộ của Mỹ chống lại Cộng sản.”(27) Những cáo buộc mới về đàn áp tôn giáo này cũng vô căn cứ như những cáo buộc trước. Maxwell Taylor, người vừa thay thế Lodge làm đại sứ Mỹ, nhận xét rằng cái gọi là âm mưu Cần lao-Công giáo-Đại Việt chỉ là “một bóng ma” bởi vì không có bằng chứng gì về việc chính quyền tìm cách ngược đãi Phật tử.(28)

Những đám đông Phật tử phá huỷ nhà cửa và nhà thờ Công giáo. Quân đội và cảnh sát không can thiệp để chận đứng bạo lực, ngay cả khi có nổi loạn xảy ra trước mắt họ.(29) Bài học về chế độ Diệm hẳn đã làm cho các quan chức chính quyền tin rằng đàn áp biểu tình, nhất là các cuộc do sư lãnh đạo, sẽ làm người Mỹ xa lánh. Ở Đà Nẵng, ba ngày xung đột giữa Phật tử và người Công giáo đã làm 12 người chết. Trong khi các Phật tử trước đây cố gắng tránh đối kháng với người Mỹ, thì nay họ trút một phần cuồng nộ lên đầu người Mỹ; 2000 người biểu tình ném đá một trại lính Mỹ trong khi hò hét khẩu hiệu chống Mỹ.(30) Phong trào Phật tử tranh đấu đã ngày càng rời xa đặc tính tâm linh của Phật giáo Việt Nam.

Như bao lần trước, Trí Quang và các lãnh tụ Phật giáo khác nói riêng với người Mỹ rằng họ chống cộng. Dẫu vậy họ từ chối không tuyên bố công khai lập trường này. Trí Quang tuyên bố rằng chưa tới lúc cần phải công khai lập trường chống cộng của mình, rằng ông ta chọn thái độ im lặng để khỏi bị cáo buộc là làm việc cho chính quyền và người Mỹ.(31) Khi mà những hoạt động của Trí Quang đã làm suy yếu trầm trọng chính nghĩa chống cộng, thật khó tin được rằng Trí Quang thực sự xem một lời tuyên bố công khai là không cần thiết. Những Phật tử khác phát biểu rằng họ không tố cộng vì họ không quan tâm đến chính trị, chỉ quan tâm đến tự do tôn giáo. Tuy vậy cùng lúc họ chỉ chỉ trích Khánh, chính quyền Sài Gòn, quân đội Nam Việt Nam, và người Mỹ, không ai trong số đó đụng chạm đến tự do tôn giáo.(32) Đến thời điểm đó, hầu hết các quan sát viên vô tư đã kết luận rằng các điệp viên cộng sản đã đóng vai quan trọng trong phong trào Phật tử tranh đấu. Xâm nhập phong trào là chuyện rất dễ. Bất cứ ai cũng có thể trở thành một nhà sư bằng cách cạo trọc đầu và khoác chiếc áo màu vàng nghệ. Trước tháng 11 năm 1963, cảnh sát Nam Việt Nam đã có thể kiểm soát được hoạt động của cộng sản trong các đô thị, nhưng những vụ thanh trừng các lãnh đạo cảnh sát sau thời Diệm đã làm què quặt cơ quan cảnh sát. Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhiều vụ nổi loạn bí mật trước đó và không có lý do gì họ lại không tìm cách gài người vào trong một tổ chức có ảnh hưởng rộng lớn mà dễ xâm nhập như thế.(33) Một số lớn Phật tử bị bắt vì hành vi bạo loạn lại không có thẻ căn cước quốc gia, một dấu hiệu khá rõ về mối liên quan với Việt cộng. Một số Phật tử tranh đấu đã di chuyển theo phương pháp quân sự với hiệu lệnh bằng trống và còi, và đã lập nên những công sự phòng thủ chống lại lực lượng chính quyền.(34) Giới Phật tử thuần tuý chắc hẳn đã không thể tự mình vạch ra những chiến thuật như thế.

Càng ngày càng có nhiều người đi đến kết luận rằng chính Trí Quang là một người cộng sản. Trong năm 1964, những vị lãnh đạo Phật giáo khác – kể cả những cựu đệ tử nổi tiếng của ông ta – bắt đầu tố cáo Trí Quang cộng tác với Việt cộng.(35) Trí Quang tuyên bố rằng mình không có liên quan gì đến các Hội đồng Nhân dân Cách mạng mới được thành lập ở miền Trung để tiến hành các hoạt động chống chính quyền và đưa ra những mục tiêu rất giống với Cộng sản.(36) Nhưng một người thân cận của Trí Quang là bác sĩ Lê Khắc Quyến đã cầm đầu Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng tại thành phố Huế - một vị trí chiến lược. Việc Trí Quang thường cáo buộc các viên chức chính quyền có năng lực và không có quá khứ ngược đãi Phật giáo đã làm dầy thêm nguyên nhân dẫn đến mối nghi ngờ về động cơ của Trí Quang.(37)

Một số viện chức cao cấp Mỹ vào thời điểm đó cũng tin Trí Quang là cộng sản. Tuy vậy, CIA (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ) vẫn chưa thực sự tin như vậy. Qua những vụ nổi loạn, cơ quan này đã thực hiện một phân tích đặc biệt về khả năng Trí Quang cộng tác với cộng sản. Kết quả là cho dù có nhiều báo cáo cho rằng Trí Quang là một người cộng sản, “vẫn còn thiếu thông tin tình báo chắc chắn để khẳng định điều mà nhiều người Việt tin, rằng Trí Quang thật sự là cộng sản.” Với nguyên nhân thiếu chứng cớ chắc chắn và những thẩm định chủ quan, phân tích đó kết luận rằng Trí Quang không phải là một điệp viên của cộng sản Việt Nam. Báo cáo đó cho rằng những hoạt động chống đối chính quyền xuất phát từ tham vọng, tinh thần bài ngoại, và ước muốn biến Nam Việt Nam thành một đất nước theo giáo quyền Phật giáo.(38) Thủ tướng Khánh lại chứng tỏ mình dễ bị lung lạc bởi những kẻ mỵ dân và đám biểu tình. Trong một cuộc biểu tình phản đối, khi hàng ngàn người hô vang khẩu hiệu, “Đả đảo độc tài quân phiệt,” Khánh cũng tham gia hô hào lớn tiếng như ai. Ông ta gắng sức làm vừa lòng những những kẻ tố cáo ông hơn là tìm cách bào chữa cho mình hay dùng sức mạnh để tái lập trật tự. Qua đó, ông ta hứa sẽ liên tục thoả mãn các yêu sách mới nhất.(39) Ở Việt Nam, sự hoà hoãn và chiều chuộng đối phương như thế là một sự mất mặt lớn và làm mất lòng tin của các viên chức chính quyền và công chúng. Theo truyền thống Khổng giáo, người Việt coi trọng sự cai trị của một nhân vật hùng mạnh không dung thứ những kẻ đối lập.

Nhận thấy tình hình trở nên tuyệt vọng, Khánh tìm cách gặp các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu vào đêm 24 tháng Tám. Khánh yêu cầu Trí Quang, Tâm Châu, và Thiện Minh ra Vũng Tàu để thảo luận. Khi các vị sư này từ chối thì Khánh tức tốc về Sài Gòn để gặp họ, điều này hiển nhiên khẳng định nhận định của phía Phật tử là họ có thể lợi dụng được Khánh. Ba vị sư đưa cho Khánh một văn bản các yêu sách. Theo danh sách này thì Khánh phải huỷ bỏ hiến chương mới, Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ bầu cử tống thống rồi Hội đồng giải tán để tách quân đội ra khỏi chính sự. Các sư cũng đòi hỏi phải sa thải tất cả những đảng viên Cần lao đang phục vụ trong chính quyền của Khánh. Ngoài ra, Khánh phải công khai tuyên bố là đang đáp ứng các yêu cầu của Phật giáo. Nếu Khánh từ chối không thực thi những điều này thì lãnh đạo Phật tử sẽ tổ chức một chiến dịch phản đối rộng khắp bằng phương pháp bất bạo động.

Ngay sau khi gặp các vị sư, Khánh hỏi ý kiến Đại sứ Mỹ Taylor. Taylor nói với Khánh, “Tôi nghĩ đó sẽ là một sai lầm khi nhượng bộ áp lực của một nhóm thiểu số về một vấn đề trọng đại, nhất là khi họ đưa một tối hậu thư và yêu cầu thực thi trong thời hạn ngắn ngủi như thế. Làm như vậy sẽ chỉ khiến họ đưa thêm yêu sách mới mà thôi”(40) Taylor đã nhận định được sự nguy hiểm này khi quan sát những tháng cuối cùng của chế độ Diệm và khi Khánh cầm quyền. Khánh đã can dự vào những biến cố lúc đó nhưng không rút tỉa được bài học nào. Vị thủ tướng Miền Nam Việt Nam đã chứng tỏ sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Phật giáo trên cơ sở là để tránh bất hoà giữa Phật giáo và Công giáo trong quần chúng và quân đội. Khánh nghĩ là không thể thắng trong cuộc chiến với cộng sản nếu không có sự ủng hộ của Phật giáo.(41)

Chỉ vài giờ sau buổi họp, Khánh ra thông cáo trong đó có lời hứa sửa hiến pháp, giảm bớt kiểm soát báo chí, cho phép biểu tình nơi công cộng, và sửa sai những vụ quá tay trong quá khứ với những toà án lưu động đặc biệt. Tuy nhiên, như Taylor đã tiên đoán, những nhượng bộ này chỉ dẫn đến những yêu sách khác, và những cuộc biểu tình phản đối của Phật tử và sinh viên. Khánh lại đưa ra một kế hoạch mới rồi tìm cách thông qua trong một phiên họp rút gọn của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Theo kế hoạch này, hiến chương mới bị bãi bỏ, Hội đồng Quân nhân Cách mạng bầu ra quốc truởng rồi Hội đồng tự giải tán.(42) Như thế Khánh đã chấp nhận tất cả những đòi hỏi mới nhất của phía Phật giáo và còn nhân nhượng nhiều hơn thế. Sự đầu hàng này của Khánh vẫn chưa đủ để được giới Phật giáo tranh đấu công khai ủng hộ. Chỉ sau khi Khánh đã đưa cho Trí Quang 300,000 US đô la tiền mặt thì Trí Quang và Tâm Châu mới ký một lá thư bày tỏ ủng hộ mà Khánh sau đó cho công bố để chứng tỏ mình được sự hậu thuẫn của Phật giáo.(43) Dẫu vậy, bức thư này lại cũng có những đòi hỏi khác. Để duy trì được sự ủng hộ của các sư, Khánh phải mạnh tay với Cần lao và phải bầu ra quốc hội mới trong vòng một năm.(44)

Những quan sát viên tinh ý nhận ra rằng những nhượng bộ quá đáng của Khánh đối với Phật giáo có nghĩa rằng quyền lực hầu như đã được trao từ phía những người muốn có một sự bình ổn bề ngoài nhờ phong cách quân sự qua tay các nhà sư Phật giáo với chủ ý phục vụ lợi ích riêng của mình mà cũng có thể cho cả cộng sản. Khi thực thi những nhượng bộ này Khánh đã phải chấm dứt nhiều biện pháp chống phản loạn có hiệu quả.

Nhiều tướng lãnh Nam Việt Nam trở nên hết sức quan ngại về tình hình đất nước. Các tướng có mặt trong buổi họp của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đã chấp thuận kế hoạch của Khánh một cách miễn cưỡng và có sự cân nhắc vì Khánh được Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ. Một vài tướng vắng mặt tại cuộc họp đã trở nên giận dữ khi biết sự tình, đã công khai chỉ trích Khánh về các biện pháp làm suy yếu chính quyền. Nổi bật trong số các tướng chống lại chính sách của Khánh đối với Phật giáo là Tướng Khiêm và Tướng Thiệu. Sau đó họ tìm hậu thuẫn để thay đổi Khánh bằng tướng Dương Văn Minh, và họ cũng nhận được sự hợp tác của những vị trước đây đã theo Khánh.(45) Cả đám đến gặp đại sứ Taylor và yêu cầu được phép hạ bệ Khánh. Tuy nhiên, Taylor trả lời rằng không nên có thêm đảo chính nữa bởi làm thế chính quyền lại càng suy yếu thêm. Lời cảnh cáo này đủ để ngăn việc lật đổ Khánh.(46) Sau mấy ngày tranh cãi, các tướng thoả thuận thành lập tam đầu chế gồm Khánh. Minh, Khiêm để nắm quyền trong hai tháng cho đến khi một chính quyền mới được thành lập.


(Còn tiếp)


Tiếp theo phần I


Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam

Tam đầu chế này mang đơn vị nhảy dù về Sài Gòn và dẹp tan các cuộc nổi loạn. (47) Hành động quyết liệt ban đầu này, tuy vậy, đã không được tiếp tục vì rõ ràng là tam đầu chế thiếu đoàn kết và không cùng chung mục đích. (48) Khánh có quyết định tối hậu trong khi Khiêm và Minh không có ảnh hưởng gì mấy; Khánh vẫn còn phục tùng nhóm Phật giáo tranh đấu. Áp lực từ nhóm Phật giáo và các Hội đồng Nhân dân Cách mạng buộc Khánh phải sa thải nhiều viên chức dân sự và sĩ quan quân đội dù họ không “chống Phật giáo,” trong đó có những lãnh đạo tốt nhất của đất nước. (49) Sức ép của nhóm Phật giáo cũng khiến Khánh chấm dứt kiểm duyệt báo chí và ra lệnh thả tất cả những người trước đó bị bắt trong các buổi bạo loạn, trong đó có it nhất 11 người được biết chắc là cán bộ Việt cộng cấp cao. (50)

Những hành động này và các nhân nhượng khác đối với Phật giáo của Tướng Khánh làm gia tăng sự chống đối chính quyền từ phía các tướng lãnh, thường dân Công giáo, cựu đảng viên Cần lao, Đại Việt. (51) Các nhóm này nuối tiếc chế độ Diệm vì đã cầm quyền hiệu quả so với các chính quyền nối tiếp. Ngày 13 tháng Chín, sự thất vọng đó đã bùng nổ thành một cuộc nổi loạn công khai. Vụ lật Khánh này do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Tướng Lâm Văn Phát, và tư lệnh Quân đoàn IV, Tướng Dương Văn Đức. Hai tướng này đã chán ngán sự cai trị yếu kém của Khánh và nhất là sự phục tùng các yêu sách từ phía Phật giáo. Hai tướng này ở trong đám tướng lãnh Khánh vừa quyết định cách chức dưới áp lực của Phật giáo. (52) Lực lượng nổi dậy chiếm trung tâm thành phố mà không cần nổ một phát súng nhưng họ đã không tìm ra Khánh vì ông đã trốn lên Đà lạt ngay khi nội loạn bắt đầu.

Trên đài phát thanh quốc gia, Tướng Phát tuyên bố rằng ông ta đã lật đổ chính quyền và sẽ bắt giữ Khánh. (53) Thành phần lãnh đạo mới sẽ phục hồi tinh thần của Diệm và uy tín của Diệm sẽ là nền tảng cho sức mạnh của chính quyền mới. (54) Tướng Phát đã thảo luận riêng các kế hoạch chính trị với Phó Đại sứ Mỹ U. Alexis Johnson và Tướng William C. Westmoreland, tư lệnh lực lượng quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tuy nhiên, người Mỹ kết luận rằng các lãnh tụ đảo chính đã không chuẩn bị sẵn sằng để thành lập một chính quyền mới. Họ bảo Phát và các cộng sự hãy chấm dứt cuộc nổi loạn và cảnh cáo rằng Mỹ vẫn còn ủng hộ chính quyền đương thời. Thái độ phản đối của người Mỹ đối với cuộc đảo chính này đã khiến các tướng lãnh khác không tham gia, dẫn đến việc sau đó Phát và Đức đầu hàng. (55)

Điên đầu vì tình trạng chống đối nhau liên tục trong giới chóp bu Nam Việt Nam, người Mỹ cảnh cáo Khánh, Minh và những nhân vật có máu mặt khác rằng, nếu cứ tiếp tục đấm đá nhau có thể khiến Mỹ chấm dứt việc hỗ trợ Nam Việt Nam và như thế chắc chắn đất nước sẽ sụp đổ. (56) Dẫu vậy, những lời cảnh cáo này vẫn không mấy tác dụng! Sau vụ nổi loạn, Khánh cách chức ba tư lệnh vùng và sáu (trong tổng số chín) sư đoàn trưởng vì đã không hậu thuẫn Khánh trong cuộc đảo chánh. (57)

Những dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, thấy những nhượng bộ của Khánh đối với Phật giáo, cho rằng đã đến lúc họ đưa ra những đòi hỏi riêng cho mình. Khánh lại tiếp tục thoả mãn những yêu sách của cả hai nhóm này. Đại sứ Taylor, một lần nữa chứng tỏ sự nắm bắt chính xác về tình hình chính trị Nam Việt Nam, đã nhận định rằng khi nhân nhượng như thế, “Khánh chỉ làm tăng thêm sự yếu kém ngày càng vây bọc ông ta.” Khánh “dường như chỉ tồn tại bằng cách nhượng bộ liên tiếp mỗi khi có một nhóm gây áp lực ra mặt. Ai cũng nhận thấy rằng tiến trình đó không thể kéo dài mãi mà không làm tiêu tan uy tín của chính quyền. Chúng ta sắp đến giai đoạn đó rồi.” (58)

Những hỗn loạn khác tiếp tục xảy ra, đáng kể nhất là cuộc bạo loạn lớn ở Qui Nhơn làm tê liệt chính quyền địa phương một thời gian. Việt cộng càng ngày càng nhúng tay sâu hơn vào các cuộc bạo loạn. (59) Tại những thành phố phía bắc miền Nam Việt Nam, các viên chức chính quyền đã không làm gì để ngăn chặn hay chấm dứt những kẻ bạo loạn, khích động. Họ đã không nhận được chỉ thị nào từ thượng cấp và họ cũng đã thấy kinh nghiệm nhãn tiền là những ai ra tay cưỡng chế sau đó đều bị sa thải theo tố giác của bên Phật giáo. Tình trạng mất tinh thần trở nên lan tràn trong giới công chức tại các thành phố và đô thị, kể cả Sài Gòn. (60)

Hội đồng Quốc gia Tối cao, vừa được thành lập gồm có những đại diện của những nhóm lớn trong nước, được triệu tập vào khoảng cuối tháng Mười để chọn lãnh đạo mới cho đất nước. Hội đồng đã chọn Phạm Khắc Sửu - một nhân vật đã lớn tuổi làm quốc trưởng, và Sửu cử Trần Văn Hương làm thủ tướng, chức vụ với quyền lực lớn nhất. (61) Hương là một người theo chủ nghĩa quốc gia bướng bỉnh, bảo thủ, ghét cộng sản và đã từ chối phục vụ trong chính quyền Bảo Đại trước đây. Ông ấy là một trong số ít người có bản lĩnh và quyết tâm và chính là người cần thiết lúc ấy để chấm dứt tình trạnh hỗn loạn ở Sài Gòn. Hương chống lại chính sách hoà hoãn của Khánh đối với Phật giáo và dự định thực thi một chính sách tương tự như của Diệm, qua đó trật tự được ổn định cho dù có nghĩa là phải đàn áp sự chống đối của phía Phật giáo.

Giống Diệm và khác Khánh, Hương xem Trí Quang là một mối đe doạ không thể cùng tồn tại đối với sự sống còn của đất nước. Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên người Mỹ Marguerite Higgins, Huơng nói về Trí Quang, “Ông ta nói như một người cộng sản. Những điều ông làm có lợi cho cộng sản. Nhưng người Mỹ quí vị muốn chứng cớ tuyệt đối. Và bằng chứng thì không phải là chứng cớ tuyệt đối. Chúng tôi có thể chứng minh là Trí Quang đã họp với cán bộ Việt cộng cao cấp ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Nhưng Thích Trí Quang lại có thể nói rằng ông ta đến đó là để cải giáo những người cộng sản thành Phật tử - và một số người cũng tin ông ta!” (62)

Những Phật tử tranh đấu ngay lập tức thử sức Hương. Họ tổ chức biểu tình đấu tố chính quyền và đòi nội các từ chức. Trong một thông báo công khai, họ gọi Hương là “kẻ ngu xuẩn, phản quốc, mập phệ, cứng đầu vô chính sách.” Họ xem chính quyền Hương “không cách mạng” và có chứa tàn dư của chế độ Diệm.” Điều tố cáo này không có cơ sở vì đa số các thành viên nội các được chọn vì đã không tham gia hoạt động chính trị của đảng phái nào. Trí Quang cũng không nêu được một ai khác có thể thay thế Hương. “Chúng tôi không bao giờ ham muốn gì cả, và nói rằng Phật giáo muốn điều này, điều nọ là sai. Chúng tôi không bao giờ bảo trợ một cá nhân nào.” (63) Câu này đã phủ nhận những cáo buộc đối với Diệm, Khánh, Hương, người Công giáo, Đảng Cần lao và Đại Việt, cũng như lời hứa ủng hộ mà Trí Quang đã bán cho Khánh trong tháng Tám. Sự bảo trợ, và chống đối, của Trí Quang đối với cá nhân các chính trị gia sẽ gia tăng ngay trong những tháng sau đó.

Cho dù những Phật tử tranh đấu thường dùng ngôn từ mập mờ, chung chung khi bày tỏ sự chống đối Hương, điều làm họ bực nhất là Hương chủ ý tái lập trật tự và từ chối đáp ứng những yêu sách của Phật giáo. Các lãnh tụ Phật tử lên án mạnh mẽ kế hoạch của Hương nhằm hạn chế những cuộc biểu tình, và một số thậm chí còn kêu gọi cắt giảm các hoạt động quân sự. (64) Các lãnh tụ Phật giáo tuyên bố họ thích tình trạng bất ổn định và sự rã đám của chính quyền hơn là một chính quyền có khả năng do Hương lãnh đạo, cho dù điều đó có tiếp tay cho Việt cộng. “Chẳng thà chính trị bỏ ngỏ còn hơn là để Hương cầm quyền,” một lãnh tụ Phật giáo đã nói.” Chính quyền này sẽ phải ra đi.” (65)

Mặc dù bị áp lực từ phía Phật giáo, Hương nhất định không dung thứ những cuộc biểu tình có hơi hướng bạo loạn, cũng không chịu nhượng bộ. Khi những Phật tử tranh đấu và sinh viên tổ chức biểu tình lớn, Hương ra lệnh cho quân đội giải tán với vòi rồng và lựu đạn cay và binh sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. (66) Các Phật tử tranh đấu lại cáo buộc các lực lượng an ninh đã làm một số người chết và bị thương trong trong những tuần đầu của nhiệm kỳ của Hương, nhưng thực ra không có ai chết và số bị thương rất thấp so với những lời tố cáo từ phía Phật giáo. (67) Hương cũng áp đặt kiểm duyệt báo chí, đóng cửa 10 tờ báo bị nghi ngờ là cộng tác với cộng sản. (68)

Tại một buổi biểu tình chống chính quyền khoảng cuối tháng Mười Một, phía Phật tử tranh đấu gia tăng bạo loạn. Một đám đông gồm nhóm Phật tử tranh đấu và những kẻ phản đối khác ném đá và tấn công cảnh sát bằng gậy gộc. Một vài kẻ ném lựu đạn có sức ép mạnh, loại Việt cộng thường dùng, vì vậy một binh sĩ Nhảy Dù đã bắn súng lục về phía đó. Những loạt đạn này lại làm chết một em trai 15 tuổi. Phía Phật giáo sau đó ra tối hậu thư đòi quân đội và cảnh sát không được đụng đến những kẻ biểu tình và buộc Hương phải từ chức. Hương đáp lại bằng lệnh cấm tụ tập nơi công cộng và đóng cửa một số trường học.

Công khai thể hiện mối nghi ngờ có sự đồng loã với cộng sản, Hương tuyên bố trên đài phát thanh rằng bất ổn là do lỗi “của những kẻ vô trách nhiệm, những người đã vô tình hay cố ý theo kế hoạch của cộng sản.” (69)

Hương đã thành công trong việc dẹp loạn ở Sài Gòn, nhưng ông đã không đạt đươc tiến bộ trong một số lãnh vực quan trọng. Trước những mưu đồ của phía Phật giáo và sự bất đồng về cách giải quyết đối với những cuộc biểu tình của Phật tử càng làm chia rẽ thành phần lãnh đạo của Nam Việt Nam. Nội các của Hương và các tướng lãnh đã chia thành hai phe, bên theo và bên chống Hương, và những kẻ chống Hương lại hợp tác với Trí Quang. Vì sự thiếu đoàn kết này và những rạn vỡ đã xảy ra trước đó, Hương đã không thể phục hồi cơ cấu hành chính trên cả nước. “Hậu quả của tình trạng bế tắc chính trị ở Sài Gòn dần dần xuất hiện tại các tỉnh.” Như Taylor đã nhận xét trong một báo cáo. “Nhất là các công chức không biết phải hành động ra sao và do đó thường theo khuynh hướng e dè cố hữu khi không có một tiếng nói mạnh mẽ có thẩm quyền chỉ đạo họ.” (70)

Vào đầu tháng Mười hai, sau khi đã tham khảo ý kiến Tổng thống Johnson ở Washington, Đại sứ Taylor thực hiện một chương trình mật để kiềm chế sự chống đối từ Phật giáo. Ông ra lệnh cho các viên chức toà đại sứ Mỹ tìm cách cô lập Trí Quang và Tâm Châu với những Phật tử khác. Tình hình lúc đó thuận lợi cho việc này vì ngày càng có nhiều lãnh tụ Phật tử đã tỉnh ngộ vì Trí Quang chống đối chính quyền dữ dội nhằm phá hoại một chính quyền chẳng có vẻ gì là thiếu bao dung về tôn giáo. Vào cuối năm, Mai Thọ Truyền và hệ phái Phật giáo Miền Nam cắt đứt liên hệ với Trí Quang. Các nỗ lực thống nhất Phật giáo miền Nam với các nhóm chống Trí Quang khác, dẫu vậy, đã không thành công vì sự chia rẽ trong giới Phật tử. (71)

Taylor cũng tìm cách tiết giảm cường độ chống đối của Trí Quang bằng cách tạo áp lực trực tiếp. Các viên chức toà đại sứ thông báo cho Trí Quang và các lãnh tụ Việt Nam khác rằng ý nguyện của Mỹ giúp Việt Nam không thể tiếp tục trừ khi mọi người đoàn kết sau lưng chính quyền Hương. Những lời đe doạ này được đưa ra dựa trên một tiền đề không lấy gì làm chắc chắn, rằng Trí Quang không muốn người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Đối với những Phật tử nằm vùng cho Hà Nội, những đe doạ như thế chỉ khuyến khích họ càng chống đối Hương. Cùng lúc đó, cơ quan CIA cũng đang tiếp cận những thuộc cấp của Trí Quang và khuyến khích họ tìm cách tác động khéo léo tới sư thầy. Chiến dịch áp lực này đã không mang lại mấy kết quả. Trí Quang và các lãnh tụ khác tiếp tục công khai chỉ trích chính quyền là chống Phật giáo, và họ đe doạ sẽ lên án cả người Mỹ nếu vẫn tiếp tục ủng hộ Hương. (72)

Khủng hoảng chính trị kế tiếp xảy ra vào ngày 19 tháng Mười hai, và một lần nữa lại do tác động và ảnh hưởng của những người Phật tử tranh đấu. Khánh và một nhóm tướng lãnh trẻ, năng động, có biệt hiệu “Nhóm Trẻ Hăng Say – Young Turks” yêu cầu Hội đồng Quốc gia Tối cao cho giải ngũ tất cả những sỹ quan quân đội có hơn hai mươi lăm năm binh nghiệp. Cả Khánh và các tướng trẻ này nghĩ rằng các sỹ quan già hơn họ không những chỉ thiếu năng lực mà còn cảm tình quá độ với nhóm Phật giáo tranh đấu. Hội đồng không chấp thuận yêu cầu này dẫn đến việc nhóm tướng trẻ này giải tán Hội đồng và bắt giữ luôn các thành viên. (73) Taylor hết sức giận dữ khi biết cơ sự. Ông ta đã nghĩ rằng các tướng sẽ báo trước về những kế hoạch như thế và ông cũng tin đó là một nước cờ chính trị tệ hại. (74) Taylor nghi ngờ rằng việc làm đó là một phần trong ý đồ của Khánh để lấy lại quyền hành trong chính phủ, cộng với những biến cố trong quá khứ khiến Talyor đi đến kết luận rằng Khánh không có khả năng cầm quyền hiệu quả cũng như chống lại áp lực từ phía Phật giáo. (75)

Thực ra Taylor đã suy diễn sai những gì đã xảy ra, bởi vì Hương đã đồng ý với việc giải thể Hội đồng Quốc gia Tối cao, và nhóm tướng trẻ đã ủng hộ việc đó như là một cách để trao thêm quyền cho Hương, không phải cho Khánh. Hương đã liên minh với các tướng để họ giúp ông chống lại Phật tử tranh đấu mà ông coi là vấn đề tệ hại nhất của đất nước. (76) Khi Taylor đề nghị Hương nên từ chối việc giải thể Hội đồng, Hương chỉ gạt đi với nhận xét rằng người Việt “giải quyết vấn đề theo tình hơn là theo lý” và do đó vai trò của Hội đồng ít quan trọng hơn là “uy tín đạo đức của lãnh đạo.” (77) Các cố vấn Mỹ và các sỹ quan tình báo có liên lạc với các tướng lãnh Việt Nam thấy rằng giới lãnh đạo quân đội cũng không nghĩ rằng hành động đó là phi pháp. (78)

Quá giận, Talyor mắng mỏ các tướng trẻ. “Các ông đã làm rối tung hết cả rồi!” Talyor bảo họ. “Chúng tôi không thể bao che mãi nếu các ông cứ vẽ sự như thế.” Nguyễn Cao Kỳ, tư lệnh Không quân Nam Việt Nam, trả lời rằng cần phải có thay đổi bởi vì “tình hình chính trị còn tệ hại hơn thời Diệm.” Kỳ giải thích là Hội đồng cần được giải thể vì nhu cầu thực tế. “Chúng tôi biết rằng quý ông muốn ổn định, nhưng có đoàn kết mới ổn định được.” Một số thành viên Hội đồng đã loan truyền tin đồn đảo chánh và tạo nghi kỵ,” Kỳ khẳng định, và “các lãnh đạo quân sự cũng như dân sự đều đồng ý rằng sự hiện diện của các thành viên này trong Hội đồng đã gây chia rẽ trong quân đội vì ảnh hưởng của ho.” (79) Trong một quốc gia mà tình trạng phe phái đang làm hỏng mọi việc và nơi mà sự phân chia quyền lực gây cảm giác bất ổn theo lối nghĩ của người dân vốn nặng tư tưởng Khổng giáo, thì việc giải thể Hội đồng, thực chất, có thể cải thiện được hoạt động của chính quyền.

Trong một cuộc họp riêng với Khánh, Taylor chỉ trích nặng nề việc giải thể Hội đồng và cho rằng điều đó không phù hợp với điều người Mỹ mong muốn là ổn định và lòng trung nghĩa từ phía chính quyền Nam Việt Nam. Khánh trả lời rằng cần phải có lòng trung nghĩa từ cả hai phía trong một mối quan hệ, và khẳng định rằng đất nước này không phải là chư hầu của Mỹ. Khánh gợi lại có lần Diệm nói rằng Mỹ đã không trung nghĩa với ông. Taylor buột miệng nói rằng không còn tin tưởng Khánh nữa. Khánh trả đũa lại rằng một đại sứ không nên hành xử như thế. (80)

Sau buổi họp căng thẳng này, Khánh khởi động một chiến dịch tuyên truyền chống Mỹ mạnh mẽ. Trên đài phát thanh Việt Nam, Khánh tuyên bố rằng “thà sống nghèo mà hãnh diện là công dân tự do của một nước độc lập hơn là xa hoa mà ô nhục như kẻ nô lệ của ngoại bang và cộng sản.” (81) Khánh nói với một nhà báo Mỹ rằng, “Nếu Taylor không hành xử thông minh hơn, Đông Nam Á sẽ mất.” Để thành công ở Việt Nam, người Mỹ cần “thực tế” hơn và chấm dứt việc biến Nam Việt Nam thành một bản sao của Mỹ, điều trách móc này hoàn toàn chính đáng vì Taylor cứ khăng khăng yêu cầu giữ nguyên Hội đồng Quốc gia Tối cao. (82)

Hương đã không có thái độ cứng rắn đối với hành động của các tướng lãnh, rốt cục đã thuyết phục người Mỹ phải hàn gắn quan hệ với các lãnh đạo Nam Việt Nam. Khánh có vẻ hài lòng. Ngày 6 tháng Một, quân đội chính thức trao chính quyền lại cho một chính phủ dân sự do Hương lãnh đạo. (83) Tuy nhiên Khánh và một số thuộc hạ trong quân đội ngay lập tức nhập bọn với Trí Quang trong âm mưu lật đổ chính quyền mới. (84) Các lãnh tụ Phật tử và sinh viên tổ chức đình công và biểu tình và chỉ trích Hương. Một uỷ ban liên tôn thuyết phục các Phật tử tranh đấu hãy giải quyết các khiếu tố với đại diện của Hương thay vì biểu tình phản đối nhưng đều vô hiệu.

Trong một buổi gặp Đại sứ Taylor, Trí Quang nhất định đòi Mỹ phải buộc Hương từ chức. Taylor trả lời nhân dân Việt Nam cần ủng hộ Hương để có chính quyền ổn định. Phấn khởi trước những thành công ban đầu của Hương trong việc dẹp bỏ những bạo loạn từ phía Phật giáo tranh đấu, người Mỹ xem Hương là một nhà lãnh đạo giỏi hơn Khánh. Ngoài ra, các viên chức toà đại sứ Mỹ đã trở nên chán Trí Quang hơn bao giờ hết vì những cáo buộc vô căn cứ đối với chính quyền và lại không đưa ra được chính kiến xây dựng nào. (85)

Sau một buổi họp với Trí Quang, Taylor than phiền, “Rốt cục vẫn là nhai đi nhắc lại những khiếu tố chỉ lọt tai những chức sắc Viện Hoá đạo.” (86) Khi Trí Quang cáo buộc là cảnh sát đã bắn chết bốn người và làm bị thương 30 người đang trên đường đi lễ chùa, người Mỹ điều tra sự việc và khám phá ra rằng không có ai bị giết, chỉ có bốn người bị thương, rằng sự việc đã được khích động bởi một kẻ gây rối đã được nhận diện, và không có lực lượng quân đội nào tìm cách đàn áp biểu tình. (87) Chính Khánh đã phải nhìn nhận với Alexis Johnson rằng những khiếu nại của phía Phật tử đối với chính quyền Hương là “không có cơ sở,” bởi vì những hành động bách hại là “không có thực.” (88)

Các viên chức toà đại sứ cũng có nhận xét về những thất bại của Phật tử tranh đấu trong việc vận động dân chúng tham gia biểu tình. Người Mỹ kết luận rằng những thất bại này cho thấy đám Phật tử tranh đấu không thực sự đại diện cho quần chúng Phật tử. (89) Người Mỹ quyết định rằng chính quyền Sài Gòn sớm muộn cũng phải đối đầu với Viện Hoá đạo của Trí Quang, nên làm càng sớm càng tốt bởi vì chuyện đó sẽ khó hơn sau mỗi thành công của phe tranh đấu.

Những nhận định gay gắt về phong trào Phật giáo tranh đấu đã được phụ hoạ bởi một số nguồn thông tin phương Tây, kể cả những tổ chức báo chí trước đây đã ủng hộ Trí Quang năm 1963. Peter Grose của tờ New York Times tường trình, “Các quan sát viên Việt Nam và ngoại quốc đồng ý rằng chính sách của Phật giáo không phải là một chính sách xuất phát từ tâm tư tín ngưỡng của tín đồ, mà đúng hơn là nỗ lực của các sư để thâu tóm quyền lực chính trị thế sự.” Các lãnh tụ Phật tử không còn khả năng tổ chức biểu tình rất đông người, nhà báo này nhận xét, và “những cuộc biểu tình công cộng , nay càng có tính chính trị, càng trở nên hỗn loạn, không còn theo đúng tinh thần hiền hoà của Phật giáo.” (90) Tạp chí Newsweek nhận xét rằng Trí Quang và các đồng sự “chỉ đại diện cho một thiểu số nhỏ Phật tử Việt Nam.” Ngoại trừ ở các đô thị, các Phật tử tranh đấu “ít được biết đến và nhiều Phật tử ở nông thôn nếu biết về họ cũng không chấp thuận việc lũng đoạn lòng mộ đạo vì mục đích chính trị.” (91)

Các viên chức toà đại sứ Mỹ tiếp tục tin rằng hầu hết các lãnh đạo Phật giáo cao nhất vẫn chống cộng, nhưng ngày càng nhiều người trong số họ nghĩ rằng ít nhất thì Trí Quang cũng đang cộng tác với cộng sản. Các chuyên gia ở toà đại sứ đồng ý rằng các lãnh đạo Phật giáo thấp hơn, nhất là những người thân thiết với Trí Quang, là đồng Hội đồng thuyền với Việt cộng. Nổi bật nhất trong đám này là Thích Huyền Quang, Tổng Thư ký Viện Hoá đạo và là bạn thân của Trí Quang. Nhiều người cả trong lẫn ngoài phong trào Phật giáo tranh đấu đã tố cáo ông này là có cảm tình với cộng sản. Phụ tá của Huyền Quang là Trần Đính cũng đã bị nhận diện như thế. (92)

Thật vậy, vào lúc đó cộng sản đang gia tăng các nỗ lực xâm nhập các tổ chức chống đối. Một lãnh đạo Việt cộng sau này đã tiết lộ rằng cộng sản đã đưa ra những kế hoạch mới, dùng những tổ chức được coi là phi cộng sản để tuyên truyền chống Mỹ và chính quyền. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mạng lưới cộng sản bí mật trong các đô thị đã lên cao chưa từng có. Trong một nghị quyết vào tháng Ba năm 1965, uỷ ban tuyên bố, “Phong trào đô thị đã tăng trưởng mạnh ở tất cả các đô thị lớn và hấu hết các thành phố nhỏ.” (93)

Ngày 18 tháng Một, khác với lập trường cứng rắn mọi khi, Hương tìm cách xoa dịu phía Phật giáo bằng cách sa thải hai bộ trưởng bị nhóm Phật giáo tranh đấu chỉ trích trước đó. (94) Nhưng cử chỉ nhân nhượng này cũng không mang lại cho Hương điều gì tốt đẹp hơn so với Diệm hoặc Khánh. Tại một buổi họp báo hai ngày sau đó, Trí Quang và một số thuộc hạ tuyên bố họ sẽ bắt đầu một cuộc tuyệt thực cho đến khi Hương từ chức. (95) Thiện Minh, đồng chí thân cận nhất của Trí Quang trong phong trào, phụ hoạ thêm rằng nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình.” (96) Đối với dân chúng Nam Việt Nam, hành động kêu gọi hoà bình công khai được hiểu là tấn công chính quyền Sài Gòn vì đó là cách cộng sản thường tuyên truyền để làm suy yếu quyết tâm tiếp tục cuộc chiến của chính phủ Nam Việt Nam. Vì Hà Nội mạnh hơn về quân sự, một sự dàn xếp hoà bình hiển nhiên sẽ có lợi cho Hà Nội và có thể sẽ liên quan đến việc người Mỹ rút quân. Trí Quang hứa rằng lãnh đạo Phật giáo sẽ không tổ chức biểu tình cho đến sau Tết, và Tâm Châu cũng hứa là không có biểu tình trong thời gian tuyệt thực. (97) Vẫn theo thông lệ, các Phật tử tranh đấu đã nhanh chóng nuốt lời hứa. Dưới sự lãnh đạo của Trí Quang và Tâm Châu, Phật tử khởi xướng một chiến dịch phản đối bài Mỹ một cách điên cuồng vào ngày 23 tháng Một. Các tuyên cáo của họ cũng lộng ngôn như những lần trước. Ở Sài Gòn, Phật tử và sinh viên biểu tình với số khá đông trước toà đại sứ Mỹ và tại thư viện Abraham Lincoln thuộc Phòng Thông tin Hoa Kỳ. Những người biểu tình tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo, chế diễu Hương là “tay sai” của Talyor và đòi Talylor phải rời Việt Nam. Các tăng ni mang những biểu ngữ đòi hoà bình. Sau khi đám biểu tình đập cửa và ném đá tấn công cảnh sát dã chiến, Hương điều lính dù đến giải tán bằng lựu đạn cay và dùi cui. Ở Huế, 5.000 người biểu tình đập phá thư viện hai tầng của Phòng Thông tin Văn hoá Hoa Kỳ, sau đó đốt 8.000 quyển sách. Cộng sự của Trí Quang là Huyền Quang ra một thông cáo cho rằng, “chính sách của đại sứ Mỹ và Hương, tay sai của đại sứ Mỹ, là ép các lãnh đạo Phật giáo đến chết và tiêu diệt Phật giáo Việt Nam.” Ở Đà Nẵng, Quảng Trị, và Nha Trang, Phật tử tranh đấu vận động các hàng quán không phục vụ người Mỹ. Nghe theo lời kêu gọi tử vì đạo của các lãnh tụ Phật giáo, một ni cô tự thiêu ở Nha Trang và một nhà sư tự chém huỷ mình trong một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Những tên côn đồ đội lốt Phật tử đốt cháy một người Công giáo tại Sài Gòn. (98)


(Còn tiếp)


Tiếp theo phần II


Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam


Ở các tỉnh phía bắc, Khánh và đồng loã chính là Tướng Nguyễn Chánh Thi, đã không làm gì để kiểm soát đám đông và bảo vệ tài sản của Việt Nam và Mỹ. Họ cho rằng hỗn loạn sẽ làm sụp đổ chính quyền Hương và họ sẽ nắm quyền. (99) Khi những cuộc bạo loạn đang tiếp diễn, Khánh lại đi dàn xếp với các lãnh tụ Phật giáo. Quân đội sẽ nắm chính quyền, loại bỏ Hương, tôn trọng “tự do tôn giáo” và thanh trừng những kẻ thân Diệm mà những đợt trước chưa loại bỏ hết. Để đáp lại, Phật giáo sẽ ủng hộ chính quyền mới ít nhất trong hai năm, và sẽ đưa Trí Quang, Tâm Châu và Hộ Giác ra ngoại quốc. (100)

Khi Alexis Johnson biết được kế hoạch này, ông cảnh cáo Khánh rằng Mỹ muốn quân đội ủng hộ chính quyền Hương. Khánh chỉ lờ đi. Sáng ngày 27 tháng Một, Khánh cầm đầu một cuộc lật đổ không bạo loạn với sự ủng hộ của Tướng Thi và Tư lệnh Không quân Kỳ. Khánh thuyết phục Hội đồng Quân lực để Khánh nắm chính quyền, với lời đảm bảo sẽ rời bỏ chính trường khi một Hội đồng cố vấn 20 người chọn được một quốc trưởng dân sự. Tuy nhiên, một số sỹ quan cấp cao chấp nhận sự sắp xếp này vì họ nghĩ là nó sẽ phản tác dụng, dẫn đến việc loại bỏ Khánh và dẹp loạn Phật tử tranh đấu. (101)

Ngay từ ngày đầu của cuộc đảo chính, Trí Quang đã âm mưu tìm cách hất cẳng Khánh và chiều hôm sau ông ta bắt đầu nỗ lực đó. (102) Bước đầu tiên là ông ta thông báo cho các tướng rằng Phật giáo sẽ không thực hiện các lời hứa là không dính đến chính trị, ủng hộ chính quyền, và ba sư đi ngoại quốc. Các lời hứa này không còn giá trị vì, theo các Phật tử tranh đấu, quân đội đã hứa lật đổ chính quyền vào ngày 25 hoặc 26 mà vẫn chưa thực hiện khi đã sang ngày 27 tháng Một. Ngoài tính lố bịch, lập luận này còn đầy trí trá vì Trí Quang đã biết trước là cuộc lật đổ sẽ không xảy ra cho đến ngày 27 tháng Một. (103) Hành động lật lọng này là một trong những điều tồi tệ nhất mà phía Phật tử tranh đấu đã làm cho đến lúc đó, và nó củng cố quan điểm của những kẻ dèm pha rằng các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là những kẻ dối trá chỉ muốn huỷ hoại chính quyền hơn là tiêu diệt Việt cộng. Việc chối bỏ những hứa hẹn làm một số tướng lãnh giận điên; một người đã nói với người Mỹ rằng nếu Khánh không đối mặt với Viện Hoá đạo ngay lúc này, “mạng sống ông ta sẽ bị đe doạ.” (104)

Khánh đã không đối đầu với phía Phật giáo, thay vào đó lại nhượng bộ các đòi hỏi trong khi tìm cách bám lấy quyền lực. Khánh thuyên chuyển tướng Phạm Văn Đổng là tổng trấn vùng thủ đô đi làm tư lệnh Quân đoàn II, như thế đẩy ông này xa rời trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Phạm Văn Đổng đã làm Phật tử tranh đấu khó chịu vì ông đã hoàn thành nhiệm vụ dẹp bỏ các cuộc bạo loạn và biểu tình tại Sài Gòn. (105)

Một lần nữa, phía Phật giáo chẳng làm gì để đáp lại lòng tốt của Khánh. Họ muốn chính Phật giáo là kẻ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo kế tiếp, và kẻ đó không phải Khánh. Chức vụ cao nhất về tay Bác sĩ Phan Huy Quát, người mà Trí Quang hằng vận động trước đây. Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Quát hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trí Quang. Phần lớn các quan chức khác trong chính quyền cũng là đồng minh của Trí Quang và chống “chủ nghĩa Diệm”, theo ngôn từ của Phật tử tranh đấu, có nghĩa là chống cộng mãnh liệt và không dung túng những hành động phá hoại của phong trào Phật giáo. (106)

Vào ngày 19 tháng Hai, chỉ ba ngày sau khi chính quyền mới lên nắm quyền, một cuộc đảo chính lại xảy ra do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu. (107) Quân đảo chính chiếm đài phát thanh Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Khánh lại một lần nữa chạy thoát ra Vũng Tàu. Hầu hết các đơn vị trong vùng phụ cận Sài Gòn án binh bất động, không theo phe nào trong cuộc tranh chấp này. (108)

Cũng như đã xảy ra trong cuộc lật đổ ngày 19 tháng Chín, những kẻ cầm đầu tuyên bố cảm phục Diệm và họ muốn có chính phủ gần giống chế độ của Diệm. Trên đài phát thanh, phe đảo chính tuyên bố, “Lodge đã sai khi khuyến khích đảo chính lật đổ Diệm thay vì chấn chỉnh ý đồ lầm lạc này.” Phát và Thảo báo riêng cho Kỳ biết là họ và cộng sự sẽ chấm dứt đảo chính nếu Khánh bị loại bỏ. Ba người này thoả thuận dàn xếp để sau đó quân đảo chính giải tán nhanh tránh sự cố. Hội đồng Quân Lực ra lệnh cho Khánh rời Việt Nam ngay. Sau một nỗ lực không thành để vận động ủng hộ từ các viên chức địa phương, Khánh đồng ý từ chức và đi ngoại quốc. (109)

Khi chính quyền Quát bắt đầu hoạt động, một loạt biện pháp được lòng Trí Quang được thực hiện. Tất cả mọi người bị bắt trước đây trong những cuộc biểu tình chống Hương đều được thả, trong đó một số là cộng sản. Để thoả mãn Trí Quang và ngăn ngừa nội loạn tiếp diễn, Quát và các tướng lĩnh thân cận cho tiến hành một đợt thanh trừng mới. Trong số những nạn nhân có Tướng Phạm Văn Đổng, Đại tá Trần Thanh Bền, Tướng Trần Văn Minh, Đô đốc Chung Tấn Cang, và Tướng Đặng Văn Quang – những người có năng lực nhưng bị Trí Quang chống đối vì họ đã đàn áp biểu tình của Phật tử hoặc đã can thiệp vào kế hoạch của ông. Quát và đồng minh của mình phân tán quyền lực trong quân đội nhằm ngăn chặn việc một sĩ quan nào đó thâu tóm quá nhiều quyền hành. (110)

Vì những cuộc thanh trừng này, lãnh đạo quân đội trở nên manh mún và nhờ Phật giáo ủng hộ, chính quyền Quát ít bị chống đối hơn so với các chính quyền trước. Vào đầu tháng Tư, CIA đã có thể báo cáo rằng, “Đây là lần đầu tiên sau khi lật đổ chế độ Diệm, tình trạng xuống dốc không phanh của tình hình chính trị có vẻ đã bị chặn đứng.” Tuy nhiên, sự ổn định này đã phải trả giá đắt. Những cuộc thanh trừng của chính quyền và nhượng bộ Phật giáo đã làm yếu kém trầm trọng tình trạng lãnh đạo trong quân đội. Không có lúc nào trong lịch sử 21 năm mà quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu tệ hại như trong thời Quát. Vào ngày 26 tháng Ba tướng Westmoreland nhận định rằng quân lực Nam Việt Nam đã “bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, và không còn hệ thống chỉ huy kiến hiệu. Quân lực được điều hành bởi các uỷ ban và chính các uỷ ban cũng là những đấu trường đầy âm mưu và tham vọng cá nhân.” (111) Thành tích nghèo nàn của chính quyền Quát chứng minh một sự thực thể hiện rõ ràng trong thời Khánh là một chính quyền bị Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu lũng đoạn sẽ không đủ năng lực và ý chí để duy trì cuộc chiến.

Trong khi Trí Quang và các lãnh đạo của Viện Hoá đạo bày tỏ sự chấp thuận chính quyền của Quát và hạn chế việc gây rối, họ vẫn không chừa các màn phá phách khác. Quảng Liên và năm ba lãnh đạo Phật tử từ Viện Hoá đạo công bố một kế hoạch hoà bình có liên quan đến việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Các chức sắc cao cấp tại Viện Hoá đạo, kể cả Trí Quang, nói với các viên chức toà đại sứ Mỹ rằng họ không đồng ý với Quảng Liên. Tuy vậy, trước những cử toạ khác, họ lại tán thành lập trường của Quảng Liên. Trí Quang nói với tờ Hong Kong Standard rằng Hà Nội và Washington nên “bắt đầu thảo luận ngay” để mang lại hoà bình, vì, “chúng tôi đã chịu khổ nhiều rồi, cả về nhân mạng cũng như vật chất.” (112) Khi người Mỹ đến tìm hiểu về bài phỏng vấn này, Trí Quang lại giở chiến thuật thường ngày là nói với người Mỹ rằng ông ta tán thành chính sách của Mỹ. Ông tuyên bố là ông không thực sự ngụ ý là Mỹ phải đàm phán ngay, và rằng thật ra, ông nghĩ là người Mỹ nên trì hoãn đàm phán cho đến khi tình hình quân sự đã được cải thiện.” (113)

Vài tuần sau đó, Trí Quang khuyên Taylor nên bỏ bom Bắc Việt. (114) Trong trường hợp này, có những bằng chứng trực tiếp là lời khuyên này chỉ để duy trì thiện cảm của Mỹ để nhóm Phật tử tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động khuynh đảo chính quyền. Robert Thompson, một chuyên viên lừng danh của Anh về chống phiến loạn ở Mã lai và sau đó là cố vấn cao cấp cho chính quyền Nam Việt Nam, nhớ lại rằng sau khi có lời khuyên này với Taylor, Trí Quang “đến gặp ngay người Pháp để giải thích rằng ông ta chỉ tìm cách giải toả những nghi kỵ của Taylor nhằm rảnh tay thúc đẩy kế hoạch bí mật vì hoà bình dù với bất cứ giá nào.” (115)

Điều làm người ta nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng của người Mỹ là một bức thư nhà sư này gửi cho người Mỹ giữa tháng Năm. Trong lá thư, Trí Quang miêu tả người Mỹ như là kẻ gây đau khổ cho Nam Việt Nam chứ không phải là kẻ cứu giúp. Ông ta cáo buộc rằng trong khi người Mỹ “tin tưởng và ngầm chiếu cố người Công giáo một cách thiên kiến,” họ lại “lo lắng và e dè đối với Phật giáo giống như kẻ cai trị đối với dân bản xứ.” Dân chúng Việt Nam nghĩ rằng người Mỹ dùng “người Công giáo để tiêu diệt Phật giáo” và họ “tin chắc rằng tất cả các sự đàn áp đều có sự dàn xếp và đồng ý của người Mỹ.” Người Mỹ sẽ thua, Trí Quang cảnh cáo, trừ khi họ chấm dứt việc thiên vị Công giáo. (116) Những cáo buộc này phi lý, không phải chỉ vì không ai tìm cách tiêu diệt Phật giáo, mà cũng vì cả người Mỹ lẫn chính quyền Nam Việt Nam đều không làm gì ưu đãi Công giáo hơn Phật giáo.

Trong thời Quát, nhiều nhóm mới đòi hoà bình hay trung lập mọc lên ở Nam Việt Nam, và những màn tuyên tuyền gia tăng mạnh. Ngạc nhiên thay, Quát lại lớn tiếng chống những nhóm này. Ông ta tuyên bố, sẽ không có hoà bình hay trung lập cho đến khi miền Bắc chấm dứt việc đưa người và vũ khí vào Nam. Ông tuyên bố rằng chính quyền sẽ dùng “mọi biện pháp để đập tan những thủ đoạn tuyên truyền lừa đảo của cộng sản nhằm đánh lừa công luận, gây rối loạn trong dân chúng, lợi dụng sự cả tin … và tiến hành những thủ đoạn chính trị thậm tệ để thống trị toàn cõi Việt Nam.” Quát sa thải 300 công chức đã ký kiến nghị đòi hỏi đàm phán chấm dứt chiến tranh, Tuy nhiên, Quát đã không đụng đến một ai trong Viện Hoá đạo vận động cho hoà bình hoặc trung lập. Quát thuyết phục Quảng Liên rút lại chương trình trung lập hoá nhưng với cái giá là phải thả tất cả các lãnh đạo phong trào hoà bình có liên hệ với phía Phật giáo. (117) Một khủng hoảng chính trị lại xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1965 khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ngăn chặn kế hoạch của Thủ Tướng Quát thay thế hai bộ trưởng mà cả Quát và người Mỹ đều cho là thiếu khả năng. (118) Sửu làm vậy vì được sự khuyến khích của nhóm chính trị gia Miền Nam và các lãnh đạo Công giáo vì họ không bằng lòng với sự thiên vị nhóm Phật giáo tranh đấu của Quát. (119) Khi khủng hoảng tiếp diễn, Trí Quang bắt đầu rút lập trường ủng hộ Quát, vì Quát đã có thái độ độc lập làm Trí Quang khó chịu. Trong một lần nói chuyện với lãnh sự Mỹ tại Huế, Trí Quang nói là nếu Quát không giải quyết được khủng hoảng hiện thời mà không phải nhượng bộ phía chống đối thì quân đội nên thế chỗ Quát. Rõ ràng Trí Quang lo Quát sẽ nhân nhượng quá độ đối với phía Công giáo và những phe mà Trí Quang không chấp nhận, và rằng Quát sẽ có biện pháp chống lại những kẻ hô hào trung lập. Nếu cần thay Quát, Trí Quang nói rằng vị thủ tướng mới “phải là người có tín ngưỡng.” Người duy nhất mà Trí Quang đề cập là Tướng Thi. “Thi là một Phật tử trên danh nghĩa,” Trí Quang nói, “nhưng ông ta không quan tâm đến tôn giáo,” một nhận định đáng ngờ vì Thi đã liên tục cộng tác với phe Phật tử tranh đấu. (120)

Ngày 9 tháng Sáu, Quát thỉnh cầu các tướng lãnh hoà giải mối bất hoà. (121) Trong một buổi họp với Quát, các tướng đã bộc lộ sự chán ngán về tình trạng bất lực của các chính quyền dân sự. Họ cũng bực bội vì những thanh trừng trong quân đội Nam Việt Nam trong thời Quát, và vì những trận thất bại lớn trong mấy tuần vừa qua. Mất nhuệ khí khi bị các tướng lãnh chỉ trích, Quát đồng ý từ chức và trao quyền lại cho quân đội. (122)

Mọi việc tiến triển như Trí Quang dự liệu cho đến khi lãnh đạo mới được chọn. Các chức vụ cao nhất đã không vào tay Tướng Thi nhưng lại về tay Tướng Kỳ, người trở thành thủ tướng và chủ tịch hành pháp, và Tướng Thiệu chủ tịch uỷ ban lãnh đạo. Các tướng lãnh rõ ràng muốn chấm dứt tình trạng Trí Quang lũng đoạn chính quyền và vì Kỳ và Thiệu quan tâm đến việc chiến đấu chống cộng hơn là thoả hiệp với Phật giáo tranh đấu.

Thái độ này được bộc lộ rất nhanh, khi Kỳ, Thiệu và các tướng quyết định rằng chính quyền mới sẽ bắt đầu bằng “tuần lễ nín thở.” Các hoạt động trong tuần đó gồm việc áp đặt kiểm duyệt, đóng cửa nhiều tờ báo, và đình chỉ các tự do dân sự. Mục tiêu kế tiếp là chuyển giao những tranh cãi chính trị của các chính khách Sài Gòn về một “biệt thự nhiều cổ thụ,” nơi họ có thể “thảo luận và soạn thảo các chương trình ủng hộ chính quyền.” Về vấn đề chống đối từ các nhóm tôn giáo và chính trị, họ quyết tâm “lờ đi với quy định rằng kẻ làm loạn sẽ bị bắn.” Các tướng cũng đưa ra các biện pháp để tổ chức dân chúng thành các lực lượng bán quân sự. Tiếp sức cho chính quyền dân sự bằng sự xốc vác và quyết đoán, các tướng lãnh đạo đã không chần chừ thực hiện ngay các kế hoạch này. (123)

Trí Quang hẳn đã không phản đối mạnh việc chỉ định Kỳ và Thiệu và tin rằng ông ta có thể khuynh đảo họ cũng như với Khánh. Lúc đầu, Trí Quang tuyên bố ủng hộ chính quyền mới. Tuy nhiên, chỉ trong một tháng, khi chính quyền mới cho thấy những dấu hiệu đầy triển vọng, Trí Quang lại đòi loại bỏ. Ông tố cáo Thiệu là dư Đảng Cần lao – cho dù Thiệu đã đóng vai trò quan trọng khi lật đổ Diệm – và còn buộc Thiệu là có “khuynh hướng phát xít.” Trí Quang cáo buộc rằng “những dư Đảng Cần lao chung quanh Kỳ đã phá hoại các chương trình của Kỳ.” Cũng như trước, những cáo buộc chung chung của Trí Quang vượt quá xa những điều cụ thể. Khi bị yêu cầu đưa ra ví dụ về việc phá sản chương trình của Kỳ, Trí Quang chỉ cóthể đưa ra câu trả lời kỳ quái như: “Quyết định của Kỳ bắn tất cả những kẻ đầu cơ, đơn giản là biện pháp đó không thể thực hiện được.” (124)

Trí Quang tiếp tục đưa ra những cáo buộc chính quyền vô căn cứ và những yêu sách không thể thoả mãn nổi – hai điều này cộng lại thành vũ khí chủ yếu của ông ta làm suy yếu chính quyền - cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Khi cuộc khủng hoảng này bùng nổ, các Phật tử nổi loạn gây rắc rối nhiều đến nỗi chính quyền phải dùng quân đội để dẹp bằng bạo lực, một lần cho xong. Kỳ đày Trí Quang về một tịnh thất miền núi. Chính quyền cuối cùng đã trực diện đối đầu Phật tử tranh đấu và đạt kết quả tốt. Sẽ không bao giờ còn chuyện Phật giáo tạo rắc rối chính trị cho chính quyền Nam Việt Nam.

Từ thời Diệm cho đến khủng hoảng Phật giáo năm 1966, Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu đã theo đuổi chiến lược giống nhau. Họ tìm cách làm suy yếu chính quyền qua biểu tình công khai và đòi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Bảo vệ tự do tôn giáo không bao giờ là một trong những mục đích chính bởi vì tự do tôn giáo của họ không bao giờ bị đe doạ. Thay vào đó, điều mà họ muốn là ưu thế chính trị. Một số Phật tử tranh đấu muốn chính quyền thiên vị Phật giáo so với các nhóm khác trong xã hội Nam Việt Nam, trong khi một số khác bí mật thông đồng mở đường cho một chính quyền cộng sản. Nếu quân đội Nam Việt Nam không thành công trong việc chống lại Phật tử tranh đấu vào năm 1965 và dẹp tan nhóm này vào năm 1966, có khả năng nhóm Phật tử tranh đấu sẽ lái chính quyền về phe cộng sản, vì người cầm đầu phong trào này, Thích Trí Quang, hoặc là đồng Hội đồng thuyền với cộng sản hay là vì tự huyễn hoặc rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền vững mạnh, thân Mỹ.

Những thành công chính trị của phong trào Phật giáo tranh đấu tuỳ thuộc vào thành phần lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn và thái độ của Mỹ. Sau một loạt những nhượng bộ vô hiệu, Ngô Đình Diệm chấm dứt nhân nhượng vì rõ ràng là các nhượng bộ đã không làm hài lòng các Phật tử. Ông đàn áp phong trào bằng cách đóng cửa chùa và bắt giữ các nhân vật chủ chốt, nhưng thắng lợi này phù du vì nó lại thúc đẩy người Mỹ ủng hộ việc lật đổ Diệm. Nguyễn Khánh cho phép chống đối chính quyền công khai và dành nhiều thời giờ nhượng bộ các Phật tử, nhưng những kết quả biện pháp này mang lại chỉ là sự suy yếu của các lực lượng chống cộng và mở đường cho những phản đối, yêu sách mới từ phía Phật giáo tranh đấu. Trần Văn Hương chọn sách lược của Diệm hơn là cách của Khánh, không nương nhẹ các hành vi bạo loạn hay đáp ứng yêu sách của Phật giáo. Chính sách này rõ ràng có triển vọng thành công hơn và người Mỹ lúc này cũng dễ thuận theo hành động cứng rắn. Tuy nhiên, Hương không thể thực thi trọn vẹn chính sách này vì Khánh đã lật ông.

Ảnh hưởng của phong trào Phật giáo tranh đấu lên tột đỉnh khi Phan Huy Quát lãnh đạo đất nước. Quát làm mọi chuyện Phật giáo muốn trong phần lớn thời gian cầm quyền. Hành động của Quát làm hiệu năng chống cộng của Nam Việt Nam xuống thấp chưa từng có, khẳng định bài học từ nhiệm kỳ của Khánh rằng hiệu quả chiến đấu tỷ lệ nghịch với việc đáp ứng các đòi hỏi của Phật giáo tranh đấu.

Lý do phản biện chính yếu mà Khánh và những người khác đưa ra để không dùng phương pháp của Diệm đối với Phật tử tranh đấu là sợ làm quần chúng Phật tử xa lánh đến độ làm mất khả năng duy trì cuộc chiến. Khánh đã đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật tử tranh đấu đối với bá tánh Phật tử; chỉ một thiểu số nhỏ ủng hộ động cơ của Phật tử tranh đấu. Cuôc khủng hoảng Phật giáo năm 1966 cho thấy nhóm Phật tử tranh đấu có thể bị dẹp mà không làm mất khả năng tiếp tục chiến đấu. Việc đàn áp Phật tử năm 1966 đã vĩnh viễn giải phóng chính quyền khỏi những áp lực Phật giáo nguy hại và tạo điều kiện xây dựng được sự gắn bó quốc gia chặt chẽ hơn ở Nam Việt Nam từ đó về sau.

--------------------------------------------------------------------------------------------------


(1) Xem Fredrik Logevall, Choosing War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1999); Brian VanDeMark, Into the Quagmire: Lyndon Johnson and the Escalation of the VietnamWar (New York: Oxford University Press, 1991); Robert Buzzanco, Masters of War: Military Dissent and Politics in the Vietnam Era (Cambridge: Cambridge University Press, 1996); George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986); Gabriel Kolko, Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (New York: Pantheon Books, 1985); Jeffrey Record, The Wrong War: Why We Lost in Vietnam (Annapolis: Naval Institute Press, 1998).
(2) Thật đáng ngạc nhiên là người ta ít đề cập đến những hoạt động chính trị của các Phật tử tranh đấu vào những năm 1964 và 1965. Chỉ có rất ít hoặc thậm chí không có dòng nào đề cập đến họ trong Buzzanco, Masters of War; Kolko, Anatomy of a War; Lloyd C. Gardner, Pay Any Price: Lyndon Johnson and the Wars for Vietnam (Chicago: Ivan R. Dee, 1995); George C. Herring, America’s Longest War: The United States and Vietnam, 1950–1975, 3rd ed. (New York: McGraw-Hill, 1996); Robert Mann, A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001); H. R. McMaster, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam (New York: HarperCollins, 1997); Marilyn B. Young, The Vietnam Wars, 1945–1990 (New York: HarperCollins, 1991); Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941–1975 (New York: Oxford University Press, 1997). Cuốn sách có những đề cập đáng kể về đề tài này là Arthur J. Dommen, The Indochina Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos and Vietnam (Bloomington: Indiana University Press), 2001. Kahin cũng phân tích phong trào Phật tử khá kỹ trong cuốn Intervention, nhưng ông bỏ sót một khối lượng thông tin lớn (mà nếu đưa vào sẽ) phản ánh bất lợi về Phật tử.
(3) William Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, 2nd ed. (Boulder, Colo.: Westview Press, 1996); Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964–1966 (Lexington, KY: University Press of Kentucky, 2002); David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the Vietnam War (Cambridge: Harvard University Press, 2000); A. J. Langguth, Our Vietnam: The War, 1954–1975 (New York: Simon & Schuster, 2000); Kahin, Intervention; Schulzinger, A Time for War; Young, Vietnam Wars.
(4) Để biết lịch sử Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ 20, xem Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983); Oscar M. Chapuis, A History of Vietnam: From Hong Bang to Tu Duc (Westport, Conn.: Praeger, 1995); Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Praeger, 1967); Ralph Smith, Viet-Nam and the West (Ithaca: Cornell University Press, 1968).
(5) Ellen J. Hammer, A Death in November: America in Vietnam, 1963 (New York: E. P. Dutton, 1987), 139; Richard Critchfield, Long Charade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace, and World, 1968), 70; Piero Gheddo, The Cross and the Bo-Tree: Catholics and Buddhists in Vietnam (New York: Sheed and Ward, 1970), 187; Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare (New York: Harper & Row, 1965), 47; CIA, Office of Current Intelligence, “The Buddhists in South Vietnam,” 28 June 1963,
John F. Kennedy Library, NSF, Box 197; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, Lyndon B. Johnson Library [hereafter LBJL], NSF, VNCF, box 9.
(6) Smith, Viet-Nam and the West; Taylor, The Birth of Vietnam; Hammer, A Death in November.
(7) “South Viet Nam,” Time, 13 December 1963, 32.
(8) Peer de Silva, Sub Rosa: The CIA and the Uses of Intelligence (New York: New York Times Book Co., 1978), 216.
(9) Saigon to State, 4 November 1963, Foreign Relations of the United States [hereafter FRUS], 1961–1963, vol. 4, 289; Robert Shaplen, Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946–1966 (New York: Harper and Row, 1966), 230.
(10) Shaplen, Lost Revolution, 243–4; CIA, “Appraisal of Nguyen Khanh,” 20 March 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3; memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 151; Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam (London: Oxford University Press, 1968), 356–7; Saigon to State, 10 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 306.
(11) CIA, “The Situation in South Vietnam,” 28 February 1964, Declassified Document Reference System [hereafter DDRS], 1975, fiche 247D; Saigon to State, 22 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 123; Ulysses S.G. Sharp and William C. Westmoreland, Report on the War in Vietnam (Washington, DC: Government Printing Office, 1969), 92–3.
(12)Tâm Châu phần nào ít quá khích hơn Trí Quang. Ông ủng hộ một chính phủ không thân Cộng sản mà cũng không thân Mỹ. Các phương tiện thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải Phóng công kích ông thường xuyên hơn Trí Quang rất nhiều. Pike, Viet Cong: The Organization and Techniques of the National Liberation Front of South Vietnam (Cambridge: M.I.T. Press, 1966), 204.
(13) New York Times, 10 May 1964.
(14) Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151.
(15) Saigon to State, 14 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 98.
(16) Saigon to State, 24 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 125; Saigon to State, 25 April 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3.
(17) Saigon to State, 27 February 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 2.
(18) Saigon to State, 9 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4.
(19) odge to Bundy, 25 October 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 4, 436; Memcon, 11 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 147; Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151; Newsweek, 7 September 1964; Time, 4 and 11 December 1964.
(21) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. Critchfield, Long Charade, 62–81; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 29; Jean Lacouture, Vietnam: Between Two Truces (New York: Random House, 1966), 222.
(21) Saigon to State, 1 June 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 3, doc. 142.
(22) Washington Post, 2 November 1983.
(23) Có báo cáo là ông thậm chí đã nhận từ CIA một khoản tiền nhỏ cho việc cung cấp thông tin, điều này dẫn đến những phỏng đoán ông làm cho Mỹ. Langguth, Our Vietnam, 292. Nhưng nhiều khả năng là Trí Quang làm như vậy để duy trì uy tín của mình với người Mỹ.
(24) Saigon to State, 7 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Time, 14 August 1964; Shaplen, Lost Revolution, 270.
(25) William H. Sullivan, Obbligato, 1939–1979: Notes on a Foreign Service Career (New York: Norton, 1984), 207–8; Saigon to State, 15 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 317.
(26) New Yorker, 19 September 1964; Saigon to FO, 24 August 1964, Public Record Office [hereafter PRO], FO 371/175472; Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; New York Times, 22 August 1964.
(27) Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(28) Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 10 September 1964; Lacouture, Vietnam, 211.
(29) New York Times, 31 August 1964.
(30) State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Saigon to FO, 25 August 1964, PRO, FO371/175472; Lacouture, Vietnam, 207–8; New York Times, 24, 27 August 1964.
(31) Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(32) Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360.
(33) CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9.
(34) Saigon to State, FO, 24 August 1964, PRO, FO371/175472; Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; CIA, “Situation in Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; SNIE 53–64, 8 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 341; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 29 August 1964; Time, 4 September 1964.
(35) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E; Topmiller, The Lotus Unleashed, 8.
36) Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8; Shaplen, Lost Revolution, 279.
(37) See Higgins, Our Vietnam Nightmare, 285–6.
(38) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. See also CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9.
(39) Shaplen, Lost Revolution, 272, 274; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Lacouture, Vietnam, 135; New York Times, 24 August 1964; Saigon to State, 3 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
(40) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 324.
(41) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “Details of the 26 and 27 August 1964 Meetings of the Military Revolutionary Council,” 1 September 1964, DDRS, 1977, fiche 278A.
(42) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; The Pentagon Papers: The Defense Department, History of Decision making on Vietnam, Senator Gravel edition (Boston: Beacon Press, 1971–1972), vol. 3, doc. 86.
(43) New Yorker, 19 September 1964.
(44) Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(45) Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336.
(46) Saigon to State, 26 August 1964, National Archives II [hereafter NA II], RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2946; Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328.

(47) Pentagon Papers, vol. 3, 86; New York Times, 29 August 1964.
(48) Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336; Saigon to State, 4 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 338; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Saigon to State, 28 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 365.
(49) Westmoreland to Taylor, 6 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 340; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 8; Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6.
(50) New York Times, 3, 10 September 1964.
(51) CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Harris, “Government of Vietnam,” 2 September 1964, NA II, RG 319, Westmoreland Personal Papers, box 39.
(52) William C. Westmoreland, A Soldier Reports (Garden City: Doubleday, 1976), 72– 3; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F.
(53) Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360.
(54) Nguyen Cao Ky, Twenty Years and Twenty Days (New York: Stein and Day, 1976), 49–50.
(55) Saigon to State, 13 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 348; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F; U. Alexis Johnson, The Right Hand of Power (Englewood Cliffs, N. J.: Prentice-Hall, 1984), 414–5; Westmoreland to Wheeler, n.d., FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 351; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Westmoreland, A Soldier Reports, 72–3.
(56) Saigon to State, 14 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 352.
(57) Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122.
(58) Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 359.
(59) SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368.
(60) Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8. See also CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368.
(61) Taylor to Johnson, 28 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 389; Maxwell Taylor, Swords and Plowshares (New York: Norton, 1972), 322–3; Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122.
(62) Higgins, Our Vietnam Nightmare, 261.
(63) Lacouture, Vietnam, 215–6. Saigon to State, 6 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 404; Washington Post, 23 November 1964; Time, 4 and 11 December 1964; Saigon to State, 4 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10.
(64) Lacouture, Vietnam, 212–13.
(65) Time, 4 December 1964.
(66) Taylor to Johnson, 17 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 413; Washington Post, 23 November 1964; New York Times, 23 and 25 November 1964; Time, 4 December 1964; Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans, 628.
(67) Taylor to Johnson, 24 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 421. Các Phật tử tranh đấu đã thổi phồng quá mức quy mô chính phủ sử dụng bạo lực trong những tháng cuối của chính thể Diệm.
(68) Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448.
(69) Time, 4 December 1964.
(70) NSC working group, ‘Intelligence Assessment,’ 24 November 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 45; Pentagon Papers, vol. 2, 342; Saigon to State, 6 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 14.
(71) Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–81968, vol. 1, doc. 444; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; Saigon to State, memcon, 18 December 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 11; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
(72) CIA, “Buddhist Plans,” 3 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; New York Times, 11 December 1964; Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55.
(73) CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C; Ky, Twenty Years and Twenty Days, 52; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Historical Division of the Joint Secretariat, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam (Washington, DC: Joint History Office, 1970), chap. 15, 5; Johnson, Right Hand of Power, 417.
(74) Westmoreland, A Soldier Reports, 93; Michael Charlton and Anthony Moncrieff, Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam (New York: Hill &Wang, 1978).
(75) Saigon to State, 20 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 452; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454.
(76) Taylor to Johnson, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 461.
(77) Newsweek, 18 January 1965.
(78) Saigon to State, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 460; Saigon to State, 24 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C.
(79) Airgram A-493, 24 December 1964, DDRS, 1978, fiche 433D.
(80) Memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Saigon to State, 21 December 1964, DDRS, 1979, fiche 206D.
(81) Saigon to State, 22 December 1964, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2949.
(82) William M. Hammond, Public Affairs: The Military and the Media, 1962–1968 (Washington, DC: Center of Military History, 1988), 119; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, chap. 15, 8.
(83) Shaplen, <ịThe Lost Revolution, 297–8; Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
(84) CIA, “Thich Tri Quang’s Campaign to Bring Down the Tran Van Huong Government,” 21 January 1965, DDRS, 1976, fiche 24E.
(85) Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 3 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 59; Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(86) Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
(87) Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(88) Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(89) Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105.
(90) New York Times, 23 January 1965.
(91) Newsweek, 8 February 1965.
(92) Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Newsweek, 8 February 1965.
(93) Một số văn kiện của Ðảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1954–1965) (Hà Nội: Sự Thật, 1985), 211–27.
(94) New York Times, 19 January 1965.
(95) Saigon to State, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(96) Ibid.
(97) Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon toState, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(98) Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29; Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, 2000, fiche 9; Saigon to State, 28 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 45; Truong Nhu Tang, A Vietcong Memoir, 95–8; Shaplen, The Lost Revolution, 300; New York Times, 23, 24, and 25 January 1965; CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.


(99)Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(100)Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(101)Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 27 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 41.
(102)CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
(103)CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA, “Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(104)Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(105)CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
(106)Saigon to State, 16 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 123; Taylor, Swords and Plowshares, 336; Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Critchfield, The Long Charade, 130; Saigon to State, 23 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 154; Saigon to State, 27 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol.2, doc.169; CIA, “Phan Huy Quat,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
(107)Ðại tá Phạm Ngọc Thảo, một chuyên gia hoạch định âm mưu, là một điệp viên của Cộng sản. Việc liệu Hà Nội có lệnh cho Thảo gây ra cuộc nổi loạn này không thì chưa rõ.
(108)INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B.
(109)MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA Vietnam Working Group, “Implications of the Saigon Coup Events,” 20 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14;CIA, “The Situation in Vietnam,” 19 February 1965, DDRS, 1976, fiche 26A; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; State to Saigon, 19 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 147; Corcoran, “Saigon Coup Situation,” 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 45; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B; Shaplen, Lost Revolution, 312; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; John M. Taylor, General Maxwell Taylor: The Sword and the Pen (New York: Doubleday, 1985), 307; MACV to NMCC, 21 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; MACV to NMCC, 22 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
(110)CIA, “The Situation in Vietnam,” 26 February 1965, DDRS, 1983, fiche 91; CIA, “Individuals and Cliques in South Vietnam,” 25 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; McCone, memcon, 25 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 165; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 14 April 1965, DDRS, 1979, fiche 239A; Anne E. Blair, There to the Bitter End:Ted Serong in Vietnam (Crows Nest: Allen & Unwin, 2001), 114–16; Critchfield, The Long Charade, 140–2; Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; Shaplen, The Lost Revolution, 344; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
(111)Westmoreland, “Commander’s Estimate of the Situation in South Vietnam,” 26 March 1965, LBJL, Westmoreland Papers, History Backup, box 5.
(112)New York Times, 28 February 1965; Saigon to State, 26 February 1965,NA II, RG 319, Central Files, 1964–1966, box 2952; Hong Kong to State, 19 February 1965, LBJL, NSF, Country File, Asia and the Pacific, China, box 238; Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; Saigon to State, 17 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 202.
(113)Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
(114)Saigon to State, 22 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15.
(115)Critchfield, The Long Charade, 131–2.
(116)Saigon to State, 15 May 1965, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2959.
(117)CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Saigon to State, 2 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 177; New York Times, 27 February and 7 March 1965; Saigon to State, 12 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Shaplen, Lost Revolution, 319–21.
(118)Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; Saigon to State, 25 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(119)CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18; Saigon to State, 5 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 332; Saigon to State, 26 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
(120)Saigon to State, 12 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(121)Pentagon Papers, vol. 2, 434; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(122)Johnson, Right Hand of Power, 437; Bui Diem, In the Jaws of Victory, 146–7.
(123)Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York: St. Martin’s Press, 2002), 142; CIA, “Military Plans for a Revolutionary Government to Replace the Present Government of Vietnam,” 11 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35B; Saigon to State, 17 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 5; Saigon to State, 21 June 1965, DDRS, 1979, fiche 455B.
(124)memcon, 9 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 11 July 1965, LBJL, NSF, NSC History, DMUSF, box 43; memcon, 14 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 27 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19.




No comments: